NHỮNG
NGÔI CHÙA CỔ
TIÊU
BIỂU CHO NỀN VĂN HÓA PHẬT GIÁO VÀ DÂN TỘC TẠI HÀ NỘI
Trong
dịp tôi về thăm lại Hà Nội quê tôi, có đến vãng cảnh
một số chùa cổ ở Hà Nội, mà tôi tạm ghi ra đây 5 ngôi
cổ tự tiêu biểu cho nền văn hóa Phật Giáo đã gắn liền
với Văn Hóa dân tộc, để cống hiến quý độc giả cùng
quán tưởng về cố đô văn vật ngàn xưa nay vẫn còn đó.
1.-
CHÙA
MỘT CỘT:
Việt
Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, tiêu biểu cho nền văn hóa
Phật Giáo đã gắn liền với nền văn hóa dân tộc từ lâu
đời, đó là một ngôi Chùa Một Cột, kiến trúc độc đáo
nhất, đã được xây dựng từ năm Kỷ-Sửu, niên hiệu
Sùng Hưng Đại Bảo 1, (1409) đời Lý Thái Tông. Vua Lý Thái
Tông (1028-1054), chiêm bao thấy Phật Bà Quan Âm trên Toà Sen,
đưa tay dắt Vua lên Toà. Khi Tỉnh dây, vua kể lại cho các
quan nghe, có người cho là điềm không lành. Sư Thiên Tuế
khuyên nhà Vua làm Chùa, dựng cột đá ở giữa hồ, làm Toà
Sen của Phật Quan Âm như đã thấy trong mộng. Chùa xây xong,
đài sen nghìn cánh đỡ Toà Phật sắc hồng, trong đặt tượng
Phật vàng lấp lánh, các nhà sư đến làm lễ, đi vòng quanh
Chùa niệm Phật cầu chúc cho vua sống lâu, vì thế đặt tên
là chùa Diên Hựu.
Chùa
Diên Hựu, người ta thường gọi là Chùa Một Cột, Chùa nằm
trên đất thôn Thanh Bảo, Huyện Quảng Đức, phía Tây Hoàng
Thành, Thăng Long thời Lý, nay thuộc phố Chùa Một Cột, Quận
Ba Đình, Hà Nội. Theo văn bia dựng năm Cảnh Trị 3 do Hoà
Thượng Lê Tất Đạt ghi, Chùa được dựng từ thời thuộc
Đường: “Năm đầu niên hiệu Hàm Thông thời Đường…”,
dựng một cột đá ở giữa hồ, trên cột xây một tòa lầu
ngọc, trong đó đặt tượng Phật Bà Quan Âm để thờ cúng.
Khi đất Chùa anh linh, cầu gì được nấy, đến khi triều
Lý xây dựng Kinh Đô ở đây, cũng noi theo dấu cũ, nên càng
linh thiêng. Khi Lý Thánh Tông chưa có hoàng tử, thường đến
đó cầu nguyện. Một đêm nằm mộng thấy Phật Quan Âm mời
lên trên lầu, ôm một đứa bé đặt vào lòng Vua. Tháng đó
Hoàng Hậu có mang Hoàng Tử, vua bèn sửa thêm ngôi chùa Diên
Hựu ở bên phải Chùa Một Cột để mở rộng việc thờ
cúng.
Đời
Lý Nhân Tông, năm Anh Vũ Chiêu tháng 5 (1080). Vua cho đúc chuông
lớn treo ở chùa gọi là: “Giác Thế Chung” (chuông thức
tỉnh người đời) và một tòa phương đinh bằng đá xanh
cao 8 trượng, nhưng vì chuông quá nặng không sao treo lên được,
phải để dưới đất nên đánh không kêu. Chỗ ruộng
để chuông thấp, có nhiều rùa đến ở, được gọi là ruộng
Quy Điền. Khi quân Minh bị bao vây ở Đông Quan, hết quân
khí, Vương Thông đã cho phá quả chuông này để đúc súng
đạn.
Quy
mô Chùa Một Cột vào thế kỷ 12 to lớn lộng lẫy hơn như
hiện nay rất nhiều. Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh chùa
Long Đọi (Nam Hà), dựng năm 1121, mười sáu năm sau khi chùa
mới hoàn thành, cung cấp cho ta hình ảnh chân thực nhất về
ngôi Chùa Một Cột thời Lý: “Lòng sùng kính Đức Phật,
dốc lòng mộ đạo nhân quả, hướng về vườn Tây Cầm
nổi danh, xây ngôi chùa Diên Hựu”. Theo dấu vết chùa cũ
cùng với ý mới của nhà Vua (Lý Nhân Tông). Sáng đào hồ
thơm Linh Chiếu, giữa hồ vọt lên một cột đá, đỉnh cột
nở đóa hoa sen nghìn cánh, trên bông sen đứng vững tòa điện
mầu xanh, trong điện đặt pho tượng vàng nhân đức, vòng
quanh hồ là hai dẫy hành lang; lại đào ao Bích Trì mỗi bên
đều bắc cầu vồng để đi qua. Phía sân cầu đàng trước
hai bên tả hữu, xây bảo tháp Lưu Ly.
“Hàng
tháng vào sớm ngày mồng một (ngày sóc), hàng năm vào dịp
du xuân, nhà Vua ngồi xe ngọc, đến Chùa mở tiệc chay, làm
lễ dâng hương hoa, cầu cho ngôi báu lâu dài, bày chậu
thau làm lễ tắm tượng Phật. Trang sức pho tượng tinh tế,
biểu lộ tướng mạo của năm loại chúng sinh”.
Qua
văn bia miêu tả, rõ ràng Liên Hoa Đài thời Lý to hơn chùa
ngày nay nhiều. Chùa thời Trần cũng không phải là ngôi chùa
thời Lý nữa. Như sách toàn thư đã ghi lại, năm 1249 mùa
Xuân, tháng Giêng, sửa lại chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn
làm ở nền cũ”. Chùa đã qua nhiều đợt tu sửa. Đợt tu
sửa lớn vào năm Thiên Ứng Chính Binh 18 (1249) gần như phải
làm lại toàn bộ. Thời Lê, triều đình nhiều lần cho tu
sửa, thu nhỏ kích thước đài sen và cột đá.
Năm
1838, Tổng Đốc Hà Ninh Đặng Văn Hòa, tổ chức quyên
góp thập phương sửa chữa điện đường, hành lang tả hữu,
gác chuông và cửa tam quan. Năm 1852, bố chánh Tôn Thất Giao
xin đúc chuông mới. Năm 1864, Tổng Đốc Tôn Thất Hàm hưng
công trùng tu, làm sàn gỗ hình bát giác để đỡ toà sen trạm
trổ thêm công phu tráng lệ. Năm 1954, trước khi rút khỏi
Hà Nội, quân pháp đã đặt mìn phá sập chùa. Sau ngày tiếp
quản thủ đô, Bộ Văn Hóa đã cho tu sửa chùa Một Cột theo
đúng kiểu mẫu cũ để lại từ thời Nguyễn.
Tòa
Đài Sen (Liên Hoa Đài) ta quen gọi là Chùa Một Cột, có hình
vuông mỗi chiều 3m, mái cong dựng trên cột đá hình trụ
cao 4m, (chưa kể phần chìm dưới đất), có đường kính là
1,2m. Trụ đá gồm hai khối, gắn rất khéo, thoạt nhìn như
một khối đá liền. Sự độc đáo của kiến trúc Chùa Một
Cột là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá.
Ở đây có sự kết hợp táo bạo của trí tưởng tượng
lãng mạn đầy thi vị qua hình tượng bông sen và những giải
pháp hoàn hảo về kết cấu kiến trúc gỗ bằng hệ thống
móng giằng, đặc biệt là xử dụng các hệ thống cột chống
chéo lớn từ cột đến sàn, vừa tạo thế vững
chắc, vừa mang lại hiệu quả thẩm mỹ, như đường lượn
của cánh sen, thiết lập sự hài hòa giữa mái và sàn, rất
đối xứng.
Ngôi
Chùa nằm giữa cái hồ (ao) hình vuông, phía dưới có thể
là biểu tượng cho đất (trời tròn, đất vuông), sự tích
bánh dầy bánh chưng. Ngôi chùa như vươn lên cái ý niệm cao
cả:”Lòng nhân ái soi tỏ thế gian”. Khối kiến trúc gỗ
đá được phù trợ bởi cảnh quan, có ao, có cây cối đã
tạo nên sự gần gũi, tinh khiết mà vẫn thanh lịch. Cảm
giác thanh cao của kiến trúc như chia sẻ, hòa đồng với trời
nước, và mầu xanh của cây lá khiến con người giũ sạch
ưu phiền, đạt tới sự trong sáng của tâm hồn như nhà sư
Huyền Quang (1254-1334) dưới thời Trần đã viết:
Vạn
duyên bất nhiễu thành dã tục
Bán
điểm vô ưu, nhân phóng khoang.
Tạm
dịch:
Mối
duyên chẳng bợn, ngăn lòng tục,
Phiền
nhiễu khuấy lâng, rộng nhân quang.
2.-
CHÙA
TRẤN QUỐC:
Bây
giờ xin quý độc giả hãy cùng tôi đến thăm Chùa Trấn Quốc,
là một trong những ngôi Chùa Cổ danh thắng, phong cảnh tuyệt
đẹp, vị trí tại phía Bắc và cách trung tâm Thủ Đô Hà
Nội hiện nay, hơn 2 cây số theo đường chim bay, thuộc địa
phận Phường Yên Phụ, Quận Tây Hồ, (quận Ba Đình
hiện nay) Hà Nội.
Đây
là một ngôi chùa cổ nhất tại Hà Nội ở nước ta, chùa
được xây dựng từ năm Lý Nam Đế (541-548), trên một khu
đất diện tích khoảng 3 sào Bắc bộ, tọa lạc tại
mặt Hồ Tây là hồ lớn nhất của Thủ Đô Hà Nội. Chung
quanh toàn nước hồ bao bọc, phía Nam có đường Cổ Ngư,
hay Cổ Ngự cũ (nay là đường Thanh Niên và Hồ Trúc Bạch,
có đường đi thông từ đường Cổ Ngư, (đường thanh Niên)
vào tới Chùa. Từ xưa nhân dân quanh vùng gọi dải đất này
là bãi “Cá Vàng”. Trên mặt đất, ngoài diện tích thổ
cư là vườn trồng trọt, có các cây cổ thụ rậm rạp, khác
nào một cảnh Lâm Tuyền.
Diễn
tiến tên của ngôi Chùa Trấn Quốc như sau: Lúc khởi đầu
lấy tên chùa là chùa Khai Quốc, (theo tài liệu của vụ bảo
tàng, bảo tồn cho biết “Tháng hai, năm hội phong thứ
5, (1096 Lý Nhân Tôn) bà Thái Hậu Ỷ Lan có mở tiệc cỗ chay
ở chùa Khai Quốc, để thiết đãi các vị Cao Tăng và hỏi
nguyên lai đạo Phật truyền vào nước Đại Việt”. Thời
kỳ nhiếp chính, bà Ỷ Lan cũng thể hiện tinh thần thành
khẩn vì Phật Pháp, Bà Ỷ Lan thường lui tới chùa cùng chư
Tăng đàm đạo.
Năm
Lê Đại Bảo (1440 - Thái Tôn), đổi hiệu chùa là An Quốc.
Từ thời đó trở về trước ngôi chùa này vẫn nguyên vị
ở bãi sông Hồng, tại phía đông Bắc phường Yên Hoa, tức
Yên Phụ ngày nay. Đến đời hậu Lê Kính Tôn, niên hiệu
Hoàng Định năm thứ 16 (Bính Thìn 1616), thấy ở đấy thường
hay bị lở vì nước sông hàng năm lên to, nên nhân dân bản
Phường phải chuyển Chùa vào bãi Cá Vàng này. Năm Lê Vĩnh
Tộ thứ 6,(1624 - Thần Tôn) và năm Dương Hòa thứ 5,
(1639 - Thần Tôn), dân sở tại kiến thiết Tòa Tam Bảo,
hai dẫy hành lang và nhà Tổ rất nguy nga tráng lệ. Theo sách
báo lưu truyền, thì ngôi Tam Quan của Chùa là Chúa Trịnh (Thanh
đô vương Trịnh Tráng) xây dựng cùng năm 1639 kể trên.
Sở
dĩ có tên Trấn Quốc là trên dải đất này, đời Lý (Lý
Bát Điệp 1010-1225), đã dựng cung Thuý Hoa. Đời Trần 1225-1400)
đổi gọi là điện Hàm Nguyên. Thời Lê-Trịnh cũng đặt
hành cung liền đó. Khi ấy cung điện của Lý Trần đã đổ
nát nhân dân liền dựng lại ngôi chùa nên nền đất cũ đó
mà gọi là Chùa Trấn Quốc. (Theo Thăng Long cổ tích, tuyển
tập văn hóa Hà Nội, báo độc lập cũng nói, tên Chùa Trấn
Quốc đã có từ thời Lý-Trần). Kế tiếp lại đắp
con đường nối liền từ đường Cổ Ngư (nay đổi tên là
đường Thanh Niên) vào Chùa. ( năm 1620).
Sau
đó xuất hiện những câu ca dao:
Gió
đưa cành trúc la đà,
Tiếng
chuông Trấn Quốc, canh gà thọ xương.
(Báo
Thủ Đô Hà Nội trang 13). (Trong quận Ba Đình có phần đất
của huyện Thọ Xương cũ).
Cũng
theo tư liệu tôi ghi lại hiện lưu tại chùa hiện nay được
biết, những vị Cao Tăng và danh nhân thời xưa, như Đức
Vân Phong pháp sư (đời thứ ba dòng Vô Ngôn Thông), Khuông
Việt Thái Sư Ngô Chân Lưu, Thảo Đường (vị sư tổ này
khai sáng phái Thiền Thảo Đường ở Việt Nam), Thông Biện,
Viên Học, Tịnh Không, Trần Tú Uyên cùng nhiều bậc Hòa Thượng
danh đức khác, đều thụ giáo và tu trì ở chùa này. Năm
580, vị Phạm Tăng Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi từ Ấn Độ qua đây,
rồi mới đến trụ trì chùa Pháp Vân thuộc Tỉnh Hà Bắc.
Chùa
Trấn Quốc còn là một nơi chốn tổ của một chi sơn môn
trong phái Thiền Tào Động truyền ở Việt Nam, đời Hậu
Lê do vị Tính Trí Giác Quan thuyền sư khai hóa, lần lượt
qua 12 đời sư tổ truyền đăng. Hiện có những tòa tháp xá
lợi của chư vị tiền bối tu hành để lại tại chùa. Khi
các du khách bước vào cổng Chùa nhìn ngay thấy hai đôi câu
đối nôm ở hai hàng cột trụ cổng ghi như sau:
Vang
tai xe ngựa qua đường tục.
Mở
mặt non sông tới cửa thuyền.
Gặp
nạn binh hỏa cuối thế kỷ 18, chùa đã từng bị hoang phế,
sau được nhân dân cùng vị Hòa Thượng bản tự Pháp Danh
Khoan Nhân phát tâm tu sửa lại. Đời Nguyễn, Vua Thiệu Trị
lên ngôi năm thứ hai (Nhâm Dần - 1842) đi Bắc tuần đến
thăm chùa, đổi hiệu chùa là Trấn Bắc Tự, nhưng nhân dân
vẫn cứ thường gọi là Trấn Quốc. Các du khách khi bước
chân vào cửa chùa thấy ngay hai câu đối nôm:
“Trải
bao phen gió Á mưa Âu, trơ đá vững đồng. Chót vót cột trời
chùa Trấn Quốc.
Riêng
một thú hoa đàm đuốc tuệ, sớm chuông, chiều trống, thênh
thang cửa Phật Cánh Tây Hồ”
Ngay
khi ấy có bài thơ, nói rằng của Vua Thiệu Trị làm mà hai
câu đầu vẫn gọi tên là chùa Trấn Quốc:
Trung
lập càn khôn, vững đế đô,
Mệnh
danh Trấn Quốc, giữa Tây Hồ.
Chùa
Trấn Quốc là một danh lam thắng cảnh, một di tích văn hóa
của thủ đô và cả nước. Trước khi đi tham quan cảnh Chùa
tôi đã đến đảnh lễ Hoà Thượng Kim Cương Tử hiện
ngài đang chủ trì tại đây, người nhỏ nhắn lúc nào cũng
nở nụ cười trên môi với nét mặt khoan dung, hiền hòa biểu
lộ của một vị cao tăng mà ai khi mới gặp cũng phải kính
nể.
Trước
chánh điện tôi thấy có cây Bồ Đề thật to lớn, theo sự
hướng dẫn của vị sư trong chùa cho biết thì đây là
một cây Bồ Đề do Tổng Thống Ấn Độ Pơ-ra-sát, sang thăm
Việt Nam, thân hành mang tặng cây Bồ Đề, lấy ở cây mà
trước đây hơn 25 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca ngồi tu thành
đạo, trồng kỷ niệm tại vườn trước cửa chùa, đến
nay cây đã trở thành cây cổ thụ trong Chùa, cành lá xanh
tốt, bao bọc cả một khu vườn rợp mát.
Chùa
Trấn Quốc là cảnh đẹp của Hồ Tây, “Lên cao ngắm cảnh,
mây nước mênh mông, nước hồ óng ánh trong suốt khiến lòng
người thanh thoát và nhẹ nhàng, tâm hồn thanh tịnh, khi đến
vãng cảnh chùa, tiếng chuông chùa gọi tỉnh mộng trần tục...
Tấm bia rêu phong còn đó, lối xưa cỏ nay đâu?. Ngày tháng
là bao, bỗng trở thành dấu cũ, khiến cho con người
chạnh lòng cảm khái với cảnh vật xưa nay”, (Văn bia 1815).
3.-
CHÙA
QUÁN SỨ:
Tôi
đến vãng cảnh chùa Quán Sứ vào lúc 10 giờ sáng, trước
cổng tam quan, có rất nhiều người bán hàng rong, nào là trái
cây, hương hoa, giấy tiền, vàng mã, các bánh đủ loại, người
ra vào tấp nập, tôi đứng ngoài quay phim và chụp hình quang
cảnh Chùa, xong tôi tiến vào trong chánh điện lễ Phật. Cảnh
tượng thật nhộn nhịp, kẻ ra người vào, nam nữ Phật Tử
kẻ đội lễ người thắp hương khấn vái làm lễ trước
chánh điện, vì nay là ngày rằm tháng hai ta, đầu năm nên
mọi người vào chùa lễ Phật cầu xin cũng chật chánh điện,
điều làm tôi chú ý đến là đa số thanh niên nam nữ, các
cụ bô lão cũng có, nhưng ít hơn. Quang cảnh sinh hoạt trong
chùa khá đông đúc.
Tôi
ra ngoài quanh xuống nhà sau đến thăm Hòa Thượng viện chủ,
Thích Tâm Tĩnh năm nay ngài 82 tuổi, (1998) ngài tiếp tôi trong
căn phòng chật hẹp thiếu tiện nghi, sau khi thăm hỏi ít câu
xã giao và cúng dường ngài, tôi trở ra quan sát quang cảnh
chùa, đang nhộn nhịp xây cất lại ngôi nhà hai tầng bên
tay trái chánh điện, bên tay phải là một thư viện và giảng
đường, phía sau chánh điện là khu nhà trai đường và lưu
trú tăng sinh, vì nơi đây hiện đang đào tạo lớp cao cấp
Phật Học.
Chùa
Quán Sứ hiện tọa lạc tại số 73 phố Quán Sứ, Quận Hoàn
kiếm Hà Nội. Theo sự tìm hiểu của tôi lịch sử ngôi chùa
như sau: Vào thời Trần Dụ Tông (1341-1369) ở cạnh khu vực
này có nhà công quán của triều đình dùng để đón tiếp
sứ giả của các nước ngoài như Chiêm Thành, Vạn Tượng,
Nam Chưởng, (Lào và Bắc Lào hiện nay), các sứ thần đều
theo đạo Phật, nên ở cạnh công quán có lập một ngôi chùa
để các sứ thần đến lễ Phật, vì thế nên Chùa có tên
là Chùa Quán Sứ, về sau nhà công quán bị hủy bỏ, nhưng
ngôi chùa vẫn còn được giữ lại.
Trong
Chùa ở tiền đường thờ Phật, Hậu đường thờ Quốc Sư
Triều Lý là thiền sư Không Lộ. Chùa có 12 bia đá, theo bia
“Quán sứ tự công đức bi ký” dựng năm Ất Mão (1855),
do tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1838), đốc học Thanh Hóa, Lê Huy
Vĩnh soạn thì: Vào đầu triều Gia Long, quân lính đóng ở
đồn Hậu Quân ở cạnh Chùa, nhờ có phó tướng Vĩnh Tài
lưu tâm đến đạo Phật, nên chùa không bị phá hủy. Đến
năm 1822, chùa được sửa sang làm chỗ lễ bái, cầu đạo
cho quân nhân. Sau lính rút đi, khu đất trống được trả
lại cho dân làng sở tại. Nhà Sư Thanh Hướng đến trụ trì,
làm hành lang đúc tượng, đúc chuông. Học trò là Văn Nghiêm
kế nghiệp, khuyến hóa mười phương, tu bổ những chỗ hư
hỏng, tô tượng và đắp thêm 27 pho tượng nữa.
Đến
năm 1934, hội Phật Giáo Bắc kỳ lấy chùa làm hội quán.
Năm 1942, Chùa được xây lại theo quy mô kiến trúc và
trang trí nội thất như hiện nay. Năm 1958 Hội Phật Giáo Thống
Nhất Việt Nam được thành lập, đã lấy chùa Quán Sứ làm
trụ sở.
4.-
CHÙA
LÝ QUỐC SƯ:
Tôi
đến thăm Chùa Lý Quốc Sư, hiện đang thờ Thiền Sư Không
Lộ, mặc dầu là một ngôi cổ tự, đã được xây cất từ
năm 1131, theo lệnh của Vua Lý, để làm nơi tu hành cho các
nhà sư ở cạnh chùa Bảo Thiên và gọi là: “Lý Quốc Sư
Tự”. Chùa hiện tọa lạc tại số nhà 50 phố Lý Quốc Sư,
Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Nơi đây trước kia thuộc thôn Tiên
Thi, Tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, kinh thành Thăng
Long.
Ngôi
Chũa đã và đang được tu bổ tương đối khang trang. Chùa
thờ Phật có nhiều tượng Phật, được tạo tác có phong
cách nghệ thuật. Đời Lê đáng chú ý là nhóm tượng “Long
Nữ Thiện Tài”, được tạc bằng đá trên cột cao 3m, có
trang trí các hoa sen, hoa cúc dây, hoa thị, lá đề... vòng quanh
cột, nhóm tượng có cấu trúc khác lạ, tượng tròn cân đối,
mang dấu ấn phong cách nghệ thuật thế kỷ thứ 18.
Bên
cạnh các tượng Phật là tượng Nhân Thần, có tượng Thiền
Sư Minh Không, Giác Hải, Từ Đạo Hạnh, cũng có cả tượng
cha mẹ Từ Đạo Hạnh, những tượng này đều có phong cách
nghệ thuật từ thế kỷ thứ 18, 19. Do vừa thờ Phật vừa
thờ Nhân Thần, nên Chùa Lý Quốc Sư, đã thể hiện khá rõ
tín ngưỡng của người dân kinh thành Thăng Long.
5.-
CHÙA
BÀ ĐÁ – LINH QUANG TỰ:
Tôi
cũng đã đến vãng cảnh chùa Bà Đá, nhân dịp này tôi xin
ghi lại đây di tích lịch sử của ngôi chùa Cổ đã tiêu
biểu cho nền văn hóa dân tộc Việt, xin quý độc giả hãy
cùng tôi tìm hiểu: “Tại sao gọi là chùa Bà Đá? và Tại
sao lại gọi Linh Quang Tự?”.
a.-
LỊCH SỬ KIẾN TẠO NGÔI CHÙA
Chùa
Bà Đá hiện nay tọa lạc tại số 3 Phố Nhà Thờ, Quận
Hoàn Kiếm, Hà Nội. Trước kia nơi này gọi thôn Tiên Thị
(còn gọi thôn Tự Tháp hay Bảo Thiên Tự Tháp, thôn Hương
Nghĩa), thuộc phường Bảo Thiên, Tổng Tiên Túc, Huyện Thọ
Xương, phủ Phụng Thiên, Kinh Đô Thăng Long. Trong một tấm
bia của chùa lại ghi “thuộc Tổng Thuận Mỹ, Huyện Thọ
Xương, Phủ Hoài Đức Hà Nội”. Ngôi chùa thì vẫn nguyên
vị trí tại một khu vực gần hồ Hoàn Kiếm, danh tiếng của
Thủ Đô Việt Nam.
Theo
những bia bảng, thuyền phả và khoa giáo lưu truyền lại,
thì chùa này khởi đầu gọi là chùa Sùng Khánh, khai sáng
từ năm Bính Thân (1056), niên hiệu Long Thụy Thái Bình năm
thứ 3, đời Vua Lý Thánh Tôn, (Vua thứ 3 triều đại nhà Lý
Bát Điệp).
Sau
khi xây dựng chùa xong liền đúc quả chuông đồng rất lớn,
tiếp đó thì Toà Tháp Bảo Thiên vĩ đại dựng lên cao ngất
gần đất chùa (nơi xây tháp này thành chùa Bảo Thiên). Chùa
Bà Đá trước và sau trải bao phen tang thương biến đổi,
bị chiến tranh xâm lược tàn phá nhiều lần, nên các thứ
kiến tạo quy mô nói trên, đều đã mất hết từ lâu.
Trong
khoảng thời gian niên hiệu Hồng Đức, Canh Dần 1470-1498 Mậu
Ngọ) đời vua Lê Thánh Tôn, chùa chỉ còn là một ngôi am
tranh. Khi nhân dân khai móng xây tường làm Chùa, bỗng thấy
một pho tượng bằng đá hình dáng phụ nữ, dân chúng cho
là Thánh Giáng, liền đưa lên thiết lập bàn thờ, xây chùa
ngói để phụng sự, pho tượng này sau bị mai một.
Đến
thời kỳ cuối đời Lê Trịnh (Hiến Tôn – Trịnh Sâm 1767-1782).
Khi đào đất xây tường làm lại ngôi chùa, hễ bức tường
xây lên thì lại bị đổ, đào sâu xuống nữa, thì thấy
pho tượng đá xuất hiện ra, như vậy người ra cho rằng:
Tượng này linh thiêng. Sau khi hoàn thành công việc tu tạo
thờ phượng, thập phương kéo đến lễ bái ngày càng đông
đúc. Từ đấy có tên gọi là Chùa Bà Đá.
Lại
đến năm Bính Ngọ (1786), Quân Mãn Thanh phá huỷ ác liệt
trước khi quân Vua Quang Trung tiến vào thành Thăng Long. Ngôi
Chùa Bà Đá bị tiêu thổ, đất chùa bỏ hoang một thời gian.
Trước
kia phạm vi đất đai tự viện rất rộng, thừa dịp hoang
phế người ra lấn chiếm mất nhiều, chỉ còn lại một khoảnh
đất nhỏ. Viên quan địa phương ra sức cho dân sở tại
dọn sạch khu đất còn lại đó, thì lại tìm thấy pho tượng
đá cũ chìm ngập dưới đất chỗ đống tro tàn, mà vẫn
còn nguyên vẹn, nhân dân vui mừng, khởi tấm lòng thành tín,
người hằng tâm, người hằng sản, gom góp nhau cất lại
ngôi chùa nhỏ mới và sự sùng bái lại thịnh vượng hơn
xưa.
Năm
Cảnh Thịnh nguyên niên (Quý Sửu – 1793). Tín đồ bản tự
thỉnh được một vị cao tăng là Hòa Thượng Khoan Giai, từ
Sơn Môn Hồng Phúc về chứng cảnh, xây dựng chùa ngói
tố hảo, đặt hiệu chùa là Linh Quang Tự.
Từ
đấy về sau, qua nhiều lần mở mang, trùng tu, trùng tạo,
trở thành cảnh già lam đồ sộ như ngày nay.
b.-
ĐẠO MẠCH LƯU TRUYỀN
Cả
một thời gian dài đăng đẵng, trải dài 737 năm trước năm
1793, không thấy nói có vị sư nào Trụ trì chùa này, như
vậy Hòa Thượng Khoan Giai tức là vị sư tổ chùa Linh Quang
(Bà Đá). Vậy Ngài Khoan Giai vốn là vị thứ V và là đệ
tử sư tổ Bản Lai Tính Chúc, Đạo Chu Thuyền Sư, Tổ thứ
IV phái Thuyền Tào Động, ở chốn Tổ Hồng Phúc (Chùa Hoè
Nhai) Hà Nội. Kể từ vị thủy tổ khai tôn là Đức Thủy
Nguyệt thuyền sư (cuối thế kỷ thứ XVI) trở xuống.
Về
lịch đại truyền đăng chùa Linh Quang, đến năm Mậu Thân
(1968) thì kết thúc đời trụ trì cuối của hai pháp phái
thuyền tôn này.
Danh
sách liệt vị trụ trì lần lượt như sau:
1.-
Khoan Giai, Thiện Chúng thuyền sư.
2.-
Giác Viên hay Giác Vượng, Từ Tạng, Tịnh Minh thuyền sư.
3.-
Phá Sĩ, Từ Tuyên thuyền sư.
4.-
Thông Toàn, Thuần Hợp, Minh Minh thuyền sư.
(Vị
sư tổ thứ 4 này, có thời gian đã che chở cho một
số Linh Mục được thoát chết vì nạn Công Giáo khủng hoảng)
Tự Đức sát Gia Tô.
5.-
Tâm Khoản, Hào Quang, Chân Từ Thuyền Sư.
6.-
Tăng Cang Đỗ Văn Hỷ, tức Hoà Thượng Thích Thanh Thao.
Tất
cả 6 đời gồm 175 năm. Từ đây trở đi chỉ nguyên có một
Giáo Tôn hoằng truyền Phật Pháp cho đến nay./.